Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu bước đầu về ảnh hưởng của công nghệ hóa già phân cấp đến tổ chức và tính chất của hợp kim B96ц-1 thuộc hệ hợp kim Al-Zn-Mg-Cu…
Effect of multistage ageing on microstructures and properties of an Al-Zn-Mg-Cu alloy
NGUYỄN THỊ VÂN THANH1,*, PHÙNG THỊ TỐ HẰNG1, NGÔ MINH TIẾN2
1.Viện khoa học và kỹ thuật vật liệu, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Số 1 Đại Cồ Việt, Hà Nội
2.Viện Hóa Học – Viện Hàn Lâm Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam, Số 17, Hoàng Sâm, Hà Nội
*Email: thanh.nguyenthivan@hust.edu.vn
Ngày nhận bài: 11/7/2017, Ngày duyệt đăng: 25/9/2017
TÓM TẮT
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu bước đầu về ảnh hưởng của công nghệ hóa già phân cấp đến tổ chức và tính chất của hợp kim B96ц-1 thuộc hệ hợp kim Al-Zn-Mg-Cu. Kết quả thực nghiệm cho thấy, hóa già ba cấp (hóa già sơ bộ, nung hồi phục, hóa già kết thúc) đã điều chỉnh quá trình tiết pha, làm tăng hiệu quả của quá trình phân hóa dung dịch rắn, các pha tiết sau hóa có kích thước nhỏ mịn, phân tán hơn so với hóa già truyền thống một cấp. Cùng với sự cải thiện về tổ chức tế vi, độ bền, độ dẻo và tính chất ăn mòn của hợp kim cũng được nâng cao.
Từ khóa: B96ц-1, hợp kim Al-Zn-Mg-Cu, hóa già phân cấp, ăn mòn, tổ chức tế vi.
ABSTRACT
This paper presents an initial study of the effect of multistage aging on microstructures and properties of B96ц–1 (Al-Zn-Mg-Cu) alloy. Experimental results showed that, three-stage aging (pre-aging, retrogression, re-aging) affects the precipitation, makes the decomposition of saturated solid solution effectively that results in smaller size and more uniformly distributed precipitates in comparison with conventional aging (one-stage aging). Moreover, the tensile strength, the ductility and the corrosion properties are also improved.
Key words: B96ц-1, Al-Zn-Mg-Cu alloy, multistage aging, corrosion, microstructure.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong sản xuất công nghiệp dân sự và quân sự, nhu cầu thay thế các vật liệu có tỷ trọng lớn như thép bằng các vật liệu có tỷ trọng nhỏ hơn như nhôm và hợp kim nhôm ngày càng lớn, đặc biệt trong các ngành công nghiệp như: hàng không, tàu thủy, ôtô, dụng cụ thể thao, vũ khí… Do đó, hợp kim nhôm và công nghệ xử lý nhiệt cho hợp kim nhôm đang được chú trọng nghiên cứu nhằm tăng chất lượng và giảm giá thành sản phẩm.
Hệ hợp kim Al-Zn-Mg-Cu được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng cần độ bền cao, độ bền riêng lớn [1-4]. Độ bền của hợp kim được quyết định bởi số lượng, kích thước, phân bố và loại pha tiết trong quá trình hóa già. Thứ tự tiết pha trong hợp kim này là: dung dịch rắn quá bão hòa (sau tôi) → vùng GP → pha η (pha MgZn2 ở trạng thái trung gian bán liền mạng với nền) → pha η (pha MgZn2 ở trạng thái cân bằng, không liền mạng với nền) [4-7]. Vùng GP được hình thành trong hóa già tự nhiên hoặc/và trong giai đoạn đầu của quá trình hóa già nhân tạo. Các vùng GP này là cơ sở cho quá trình hình thành pha trung gian η. Nghiên cứu cho thấy, độ bền của hợp kim đạt được cao nhất khi pha hóa bền MgZn2 ở trạng thái bán liền mạng η [4,7-9].
Là hợp kim đa pha, bên cạnh ưu điểm về độ bền cao, thì nhược điểm của hệ hợp kim này là tính bền ăn mòn cục bộ kém như ăn mòn lỗ, ăn mòn biên hạt, đặc biệt là ăn mòn ứng suất [3, 4, 9]. Cơ tính và đặc tính ăn mòn đều xuất phát từ đặc điểm tổ chức tế vi của hợp kim. Để khắc phục nhược điểm bền ăn mòn kém của hệ hợp kim mà không ảnh hưởng đến độ bền, việc điều chỉnh tổ chức tế vi của hợp kim nhờ công nghệ nhiệt luyện là cách tiếp cận hiệu quả.
Như đã biết, với hệ hợp kim này, chế độ hóa già truyền thống T6 (hóa già nhân tạo một cấp) là chế độ cho độ bền cao, tuy nhiên, tính bền ăn mòn rất kém [3,4,10,11]. Hóa già phân cấp (hóa già được tiến hành ở các nhiệt độ khác nhau) cho hệ hợp kim Al-Zn-Mg-Cu, thường được tiến hành hai, hoặc ba cấp. Trong mỗi quy trình, quá trình phân hóa dung dịch rắn xảy ra theo các cơ chế khác nhau nhằm điều chỉnh kích thước, thành phần, hình thái và phân bố của pha tiết trong quá trình hóa già. Kết quả, cải thiện các nhược điểm của quá trình hóa già truyền thống, như cải thiện độ bền, tính bền ăn mòn, độ bền mỏi, rút ngắn thời gian hóa già…[4,6,7,10,12].
Nghiên cứu này trình bày kết quả nghiên cứu ban đầu về ảnh hưởng của hóa già phân cấp (ba cấp) đến tổ chức tế vi, cơ tính và đặc tính ăn mòn của một hợp kim nhôm thuộc hệ Al-Zn-Mg-Cu, là hợp kim B96ц-1 (GOST – TY 1-2-486-86) (được nấu luyện tại một nhà máy quân đội của Việt Nam), để sử dụng được hợp kim này trong những ứng dụng quan trọng, cần tính an toàn, ổn định và tuổi thọ lâu dài.
2. THỰC NGHIỆM
2.1. Vật liệu
Hợp kim sử dụng trong nghiên cứu là hợp kim B96ц-1, được nấu luyện tại một nhà máy trong nước, với thành phần hóa học được phân tích trước khi đưa vào thí nghiệm như trong bảng 1. Trạng thái cung cấp – trạng thái mẫu trước khi thí nghiệm là sau đúc, ủ đồng đều, đùn ép và cán (các nguyên công này được thực hiện tại nhà máy).
Bảng 1. Thành phần hóa học của hợp kim nhôm B96ц-1 thí nghiệm (%k.l).
Cu | Zn | Mg | Zr | Ti | Fe | Al |
2,459 | 8,427 | 2,644 | 0,125 | 0,025 | 0,145 | Còn lại |
2.2. Quy trình nhiệt luyện
Hai quy trình nhiệt luyện được thực hiện trong nghiên cứu: hóa già phân cấp (hóa già ba cấp) và hóa già truyền thống (hóa già một cấp). Sơ đồ quy trình nhiệt luyện được đưa ra trong hình 1.
![]( https://www.jstmetal.com/wp-content/uploads/2017/10/h1-hoa-gia-phan-cap-AlZn-300x224.jpg)
2.3. Tổ chức tế vi
Sự thay đổi tổ chức tế vi của các mẫu thí nghiệm được quan sát và chụp ảnh bằng kính hiển vi quang học (Axiovert 25 CA – Carl Zeiss, Đức) và kính hiển vi điện tử quét phát xạ trường (FE-SEM, Nova NanoSEM 450 – FEI, Hà Lan). Phân tích pha định tính của các mẫu thí nghiệm được thực hiện bằng phương pháp nhiễu xạ tia X (PANalytical Xpert PRO – Hà Lan). Các ảnh tổ chức tế vi được chụp từ mặt cắt dọc theo phương cán.
2.4. Cơ tính
Độ bền, độ giãn dài tương đối của các mẫu thí nghiệm được xác định bằng phương pháp thử kéo (M500 – 100AT, Anh). Mẫu thử kéo được chế tạo theo tiêu chuẩn TCVN 197-1:2014 ISO 6892-1:2009. Độ cứng của mẫu thí nghiệm được xác định bằng phương pháp đo độ cứng Rockwell thang B (Mitutoyo ARK600 – Nhật Bản). Mỗi thí nghiệm được thực hiện với năm mẫu thử kéo, giá trị độ bền, độ cứng và độ giãn dài là giá trị trung bình của năm mẫu này.
2.5. Đường cong phân cực
Các thông số ăn mòn điện hóa (điện thế ăn mòn, mật độ dòng ăn mòn, tốc độ ăn mòn, điện thế ăn mòn lỗ) được xác định thông qua phương pháp đo đường cong phân cực của mẫu thí nghiệm. Thiết bị được sử dụng để đo đường cong phân cực là máy đo ăn mòn điện hóa PGSTAT12/30/302 với điện cực so sánh Ag/AgCl/3MKCl, trong dung dịch 3,5 %k.l NaCl, ở 25 oC. Mẫu đo ăn mòn có bề mặt ăn mòn 1 cm2, được mài với giấy giáp SiC 2000 và rửa sạch bằng cồn ethanol trước khi tiến hành đo đường cong phân cực. Để đảm bảo độ tin cậy của phép đo, mỗi mẫu được thực hiện đo 3 lần. Giữa mỗi lần đo, mẫu được mài và rửa sạch. Hàm Tafel được sử dụng để tính toán tốc độ ăn mòn bằng phần mềm GPES (General Purpose Electrochemical Systemsoftware).
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của hóa già phân cấp đến tổ chức tế vi
![]( https://www.jstmetal.com/wp-content/uploads/2017/10/h2-hoa-gia-phan-cap-AlZn.jpg)
Để thấy được sự thay đổi trong tổ chức tế vi sau quá trình nhiệt luyện, ảnh tổ chức tế vi và phân tích pha định tính bằng nhiễu xạ tia X được thực hiện ở trạng thái mẫu ban đầu, sau tôi, sau hóa già một cấp và ba cấp. Hình 2a và 2b là ảnh tổ chức tế vi được chụp trên kính hiển vi quang học của hợp kim ở trạng thái cung cấp và sau các chế độ nhiệt luyện và hình 2c là giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu tương ứng. Ở trạng thái ban đầu (hình 2a), tổ chức của hợp kim cho thấy đây là hợp kim đa pha với nhiều pha liên kim (hạt màu sáng, hạt màu tối) trên nền dung dịch rắn của nhôm (nền sáng). Các pha bị chia nhỏ, kéo dài và phân bố dọc theo phương cán. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu ở trạng thái ban đầu cho thấy các pha chính tồn tại trong hợp kim gồm: dung dịch rắn của nhôm, pha liên kim MgZn2, Al2CuMg và Al2Mg3Zn3 (hình 2c). Sau tôi ở nhiệt độ 480 oC giữ nhiệt trong hai giờ, các pha liên kim màu sáng được hòa tan gần hết, chỉ còn lại các hạt có kích thước lớn; trong khi các pha liên kim màu tối gần như chưa hòa tan, chỉ các hạt có kích thước rất nhỏ được hòa tan vào dung dịch rắn (hình 2b). Kết hợp với giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu sau tôi (hình 2c), thấy rằng, sau khi tôi, pha bị hòa tan nhiều nhất là pha MgZn2, sau đó đến pha Al2Mg3Zn3 và pha Al2CuMg. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết, vì ở nhiệt độ tôi, Cu khuếch tán chậm hơn Mg và Zn, do đó, pha khó hòa tan nhất khi tôi là pha Al2CuMg (pha màu tối trên ảnh tổ chức tế vi) [4,13].
![]( https://www.jstmetal.com/wp-content/uploads/2017/10/h3-hoa-gia-phan-cap-AlZn.jpg)
Hình 3 là ảnh tổ chức tế vi và giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu sau hóa già một cấp và ba cấp. Sau hóa già, thấy có sự xuất hiện của các pha màu sáng. Kích thước các pha màu sáng trong mẫu hóa già ba cấp có kích thước nhỏ hơn so với trong mẫu hóa già một cấp. Trong khi các pha màu tối, không có sự thay đổi và hình thái và số lượng. Phân tích giản đồ nhiễu xạ tia X của hai mẫu, thấy rằng, cường độ nhiễu xạ của các píc của pha MgZn2 và pha Al2Mg3Zn3 mạnh hơn so với ở trạng thái sau tôi. Điều đó chứng tỏ, sau hóa già, các pha được tiết ra chủ yếu là pha MgZn2 và Al2Mg3Zn3.
![]( https://www.jstmetal.com/wp-content/uploads/2017/10/h4-hoa-gia-phan-cap-AlZn-300x276.jpg)
Để đánh giá được sự thay đổi tổ chức tế vi với pha có kích thước nhỏ được tiết ra trong quá trình hóa già mà không quan sát được bằng hiển vi quang học, hiển vi điện tử quét phát xạ trường được sử dụng. Pha tiết kích thước nhỏ với hợp kim Al-Zn-Mg-Cu chủ yếu là pha MgZn2, với kích thước khoảng 3-15 nm trong nền dung dịch rắn, tại biên hạt pha MgZn2 có kích thước lớn hơn khoảng 20-65 nm, tùy chế độ hóa già [4-8,10,11]. Hình 4 là ảnh tổ chức tế vi được chụp bằng hiển vi điện tử phát xạ trường (FE-SEM) của mẫu sau hóa già một cấp (hình 4a) và sau hóa già 3 cấp (hình 4b). Từ ảnh FE-SEM với độ phóng đại nhỏ 2000 lần (ảnh bên trái) cho thấy rõ kích thước pha liên kim trên nền dung dịch rắn có kích thước nhỏ trong mẫu hóa già ba cấp nhiều hơn so với trong mẫu hóa già một cấp. Với ảnh phóng đại lớn 100000 lần (ảnh bên phải) cho thấy, pha tiết kích thước nhỏ trong nền dung dịch rắn của hóa già ba cấp có kích thước nhỏ hơn so với trong mẫu hóa già một cấp. Về số lượng các pha tiết trong nền dung dịch rắn của hai chế độ chưa thể đánh giá qua ảnh FE-SEM, vì có các hạt pha tiết có kích thước nhỏ hơn độ phân giải của Fe- SEM, do đó, không thể quan sát rõ trên ảnh. Để đánh giá được chính xác, hiển vi điện tử truyền qua là phương pháp phân tích hiệu quả nhất. Hơn nữa, với FE-SEM cũng chưa thể cho nhận xét về số lượng các pha tiết nhỏ ở trạng thái bán liền mạng với nền. Đây là một trạng thái hóa bền của pha tiết có ý nghĩ lớn trong việc tăng độ bền của hợp kim [6-8,10-12]. Hiệu quả tiết pha kích thước nhỏ trong nền dung dịch rắn có thể đánh giá gián tiếp qua độ bền và điện thế ăn mòn của hợp kim (sẽ bàn luận trong các phần sau).
Bảng 2. Giá trị các chỉ tiêu cơ tính
Mẫu |
Giới hạn bền kéo, MPa | Độ cứng, HRB | Độ giãn dài tương đối, % |
TTCC | 499 | 71 | 9,1 |
Hóa già 1 cấp | 705 | 96,8 | 11 |
Hóa già 3 cấp | 713 | 95,6 | 11,8 |
Trong hóa già một cấp, quá trình hình thành pha tiết xảy ra theo tuần tự tạo mầm, phát triển mầm và kết tụ pha tiết khi kéo dài thời gian hóa già. Sự hình thành pha tiết ở trạng thái ổn định (trạng thái không liền mạng với nền) hơn sẽ dẫn đến sự hòa tan của pha kém ổn định (trạng thái liền mạng và bán liền mạng với nền) [9]. Do đó, các pha tiết trong hóa già một cấp có kích thước to hơn và ít pha ở trạng thái bán liền mạng. Trong hóa già ba cấp, khi hóa già ở cấp một ở nhiệt độ 120 oC, do ở nhiệt độ thấp, mức độ quá bão hòa của dung dịch rắn lớn, số tâm mầm tiết ra sẽ nhiều. Trong giai đoạn ở cấp hai ở 200 oC trong thời gian ngắn (30 phút), sẽ xảy ra sự hòa tan của một số vùng GP có kích thước nhỏ vào dung dịch rắn, làm cho dung dịch rắn trở về như trạng thái sau tôi [4,9,14]. Khi hóa già ở cấp ba ở 120 oC, quá trình tạo mầm, phát triển mầm tiếp tục xảy ra. Quá trình tạo mầm ở cấp sau, mầm không chỉ được sinh ra ở các vùng khuyết tật mà còn sinh ra trên các vùng GP được hình thành ở cấp trước [4,9,14]. Như vậy, quá trình hóa già được phân ra nhiều cấp, trong mỗi một cấp, quá trình hình thành pha tiết cũng xảy ra theo tuần tự như trên, nhưng do nhiệt độ trong mỗi cấp cao thấp khác nhau so với nhiệt độ hóa già một cấp, dẫn đến số lượng tâm mầm sinh ra nhiều hơn, đồng thời sự phát triển mầm và kết tụ pha tiết xảy ra trong thời gian ngắn hơn, dẫn đến mật độ pha tiết lớn, kích thước pha tiết nhỏ, số lượng pha tồn tại ở trạng thái liền mạng và bán liền mạng nhiều hơn [4,14].
3.2. Ảnh hưởng của hóa già phân cấp đến cơ tính
Để đánh giá được ảnh hưởng của tổ chức sau hóa già phân cấp đến cơ tính của hợp kim, độ cứng, độ bền, độ giãn dài (để đánh giá độ dẻo) của các mẫu sau hóa già một cấp và ba cấp được kiểm tra và đưa ra trong bảng 2. Kết quả về giá trị các chỉ tiêu cơ tính ở bảng 2 cho thấy, sau hóa già, độ bền, độ cứng và độ dẻo đều được cải thiện so với trước nhiệt luyện. Các mẫu được hóa già ba cấp, cho độ bền và độ dẻo cao hơn, độ cứng thấp hơn so với mẫu được hóa già một cấp. Điều này hoàn toàn được lý giải từ tổ chức tế vi của chúng ở phần 3.1. Vì hóa già một cấp cho kích thước pha tiết thô hơn, nên độ cứng cao hơn, độ bền và độ dẻo thấp hơn. Từ giá trị độ bền và độ dẻo của mẫu hóa già ba cấp có thể phán đoán số lượng pha hóa bền ở trạng thái bán liền mạng với nền ở chế độ này nhiều hơn so với ở chế độ hóa già một cấp. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với tổ chức tế vi ở hình 4. Giá trị độ bền và độ dẻo đạt được cao hơn cho thấy chế độ hóa già ba cấp có thể cải thiện được độ dai phá hủy và tính bền ăn mòn ứng suất cho hợp kim. Hơn nữa, với cùng thời gian hóa già, hóa già ba cấp cho giá trị về độ bền cao hơn, điều này cho thấy, hóa già phân cấp hoàn toàn có thể rút ngắn thời gian hóa già cho hợp kim này mà vẫn đạt được các chỉ tiêu cơ tính mong muốn.
3.3. Ảnh hưởng của hóa già phân cấp đến tính chất ăn mòn
Bảng 3. Giá trị điện thế ăn mòn (Eă/m), mật độ dòng ăn mòn (Jă/m), tốc độ ăn mòn điện hóa (Ră/m) và điện thế ăn mòn lỗ (Elỗ) trong dung dịch 3,5%NaCl ở 25 oC của hợp kim B96ц-1 sau hóa già ở các chế độ khác nhau.
Eă/m, V | Jă/m, A/cm2 | Ră/m, mm/năm | Elỗ, V | |
Hóa già 1 cấp | -0,899 | 3,668×10-7 | 4,001×10-3 | -0,771 |
Hóa già 3 cấp | -0,839 | 2,168×10-7 | 2,365×10-3 | -0,761 |
Bảng 3 là các thông số ăn mòn của hai mẫu hóa già ba cấp và một cấp được xác định từ đường cong phân cực ở hình 5 của các mẫu tương ứng. Có thể thấy rằng, với hóa già ba cấp cho các chỉ số về đặc tính ăn mòn tốt hơn so với chế độ hóa già truyền thống một cấp. Cụ thể, điện thế ăn mòn, mật độ dòng ăn mòn và tốc độ ăn mòn và điện thế ăn mòn lỗ đều thấp hơn. Điều này hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu trước đây [10,11,14-16]. Trong cùng một dung dịch ăn mòn, cùng nhiệt độ đo, giá trị điện thế ăn mòn của mẫu phù thuộc vào thành phần nguyên tố hợp kim có trong dung dịch rắn [17,18]. Điện thế ăn mòn ở chế độ hóa già ba cấp dương hơn so với ở chế độ hóa già một cấp, cho thấy hiệu quả phân hóa dung dịch rắn và tiết pha hóa bền ở chế độ hóa già ba cấp là cao hơn so với hóa già một cấp. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với kết quả tổ chức tế vi và giá trị độ bền như đã bàn luận ở phần 3.1 và phần 3.2.
![]( https://www.jstmetal.com/wp-content/uploads/2017/10/h5-hoa-gia-phan-cap-AlZn-300x239.jpg)
Các pha liên kim chứa Mg và Zn như MgZn2, Al2Mg3Zn3 là các pha có điện thế ăn mòn âm hơn so với nền dung dịch rắn của nhôm, do đó, nó bị hòa tan trong dung dịch ăn mòn [16]. Hơn nữa, kích thước các pha này càng lớn thì tốc độ ăn mòn lại xảy ra càng mạnh [19]. Vì mẫu hóa già một cấp có kích thước các pha MgZn2, Al2Mg3Zn3 thô hơn, do đó, ăn mòn xảy ra với mật độ và tốc độ lớn hơn. Với các hợp kim thuộc hệ Al-Zn-Mg-Cu, quá trình ăn mòn lỗ xảy ra do sự hòa tan cục bộ của các pha liên kim và tốc độ ăn mòn càng lớn thì ăn mòn lỗ xảy ra càng mạnh [19]. Đó là nguyên nhân, mẫu ở chế độ hóa già một cấp có điện thế ăn mòn lỗ thấp hơn so với mẫu ở chế độ hóa già ba cấp. Khi ăn mòn cục bộ xảy ra trong vật liệu (ăn mòn lỗ, ăn mòn biên hạt) sẽ thúc đẩy sự ăn mòn ứng suất xảy ra. Do đó, vật liệu có điện thế ăn mòn lỗ càng dương và mật độ ăn mòn càng thấp sẽ ít nhạy cảm hơn với ăn mòn ứng suất.
4. KẾT LUẬN
Bài báo đã trình bày những nghiên cứu ban đầu về thực hiện công nghệ hóa già ba cấp trên hợp kim B96ц-1 thuộc hệ hợp kim Al-Zn-Mg-Cu. Căn cứ vào các kết quả thực nghiệm về tổ chức tế vi, cơ tính và tính chất ăn mòn, nghiên cứu có thể đưa ra một số kết luận sau:
– Sau hóa già, pha tiết được hình thành chủ yếu là MgZn2 và Al2Mg3Zn3; trong đó pha MgZn2 có kích thước nhỏ (< 15 nm) là pha hóa bền chính. Kích thước pha tiết hình thành sau hóa già ba cấp nhỏ hơn so với kích thước pha tiết sau hóa già truyền thống một cấp.
– Với cùng chế độ tôi, cùng khoảng thời gian hóa già, hóa già ba cấp cho giá trị độ bền, độ dẻo cao hơn so với hóa già truyền thống một cấp.
– Với cùng chế độ tôi, cùng khoảng thời gian hóa già, mẫu sau hóa già ba cấp cho điện thế ăn mòn và điện thế ăn mòn lỗ dương hơn, mật độ dòng ăn mòn và tốc độ ăn mòn thấp hơn so với mẫu được hóa già một cấp.
Hợp kim nhôm B96ц-1 sử dụng trong nghiên cứu này được nấu luyện tại một nhà máy trong nước. Kết quả nghiên cứu này có thể áp dụng thử
nghiệm cho các hợp kim nhôm nội địa khác thuộc hệ Al-Zn-Mg-Cu nhằm cải thiện cơ tính và tính chất ăn mòn.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này được tài trợ bời Trường Đại học Bách khoa Hà Nội trong đề tài mã số T2016-PC-148.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1.T. Dursun, C. Soutis, Recent developments in advanced aircraft aluminium alloys, Materials and Design, Vol.56, 2014, p. 862-871.
2. S. Miller, L. Zhuang, J. Bottema, A.J. Wittebrood, P. De Smet, A. Haszler, A. Vieregge, Recent development in aluminium alloys for the automotive industry, Materials Science and EngineeringA, Vol. 280, 2000, p. 37-49.
3. J. Polmear, Aluminium Alloys – A Century of Age Hardening, Materials Frorum, Vol 28, 2004.
4. Paul A. Rometsch, Yong Zhang, Steven Knight, Heat treatment of 7xxx series aluminium alloys-Some recent developments, Transactions of Nonferrous Metals Society of China, Vol. 24, 2014, p. 2003−2017.
5. Gang Sha, Alfred Cerezo, Early-stage precipitation in Al-Zn-Mg-Cu alloy (7050), Acta Materialia, Vol. 52, 2004, p. 4503-4516.
6. Y. Liu, M. Jiang, W.J. Li, The effect of multistage ageing on microstructure and mechanical properties of 7050 alloy, Journal of Alloys and Compounds, Vol. 671, 2016, p. 408-418.
7. Dongmei Liu, Baiqing Xiong, Fenggang Bian, Zhihui Li, Xiwu Li, Yongan Zhang, Feng Wang, Hongwei Liu, Quantitative study of precipitates in an Al-Zn-Mg-Cu alloy aged with various typical tempers, Materials Science & Engineering A, Vol. 588, 2013, p. 1-6.
8. J. Chen, L. Zhen, S. Yang, W. Shao, S. Dai, Investigation of precipitation behaviour and related hardening in AA7055 aluminium alloy, Materials Science & Engineering A, Vol. 500, 2009, p. 34-42
9. Nguyễn Khắc Xương, Vật liệu kim loại màu, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội,
10. LI Jin-feng, PENG Zhuo-wei, LI Chao-xing, JIA Zhi-qiang, CHEN Wen-jing, ZHENG Zi-qiao, Mechanical prop- erties, corrosion behaviors and microstructures of 7075 aluminium alloy with various aging treatments, Transactions of Nonferrous Metals Society of China, Vol. 18, 2008, p. 755-762.
11. Wenchao Yang, Shouxun Ji, QianZhang, Mingpu Wang, Investigation of mechanical and corrosion properties of an Al-Zn-Mg-Cu alloy under various ageing conditions and interface analysis of ç′ precipitate, Materials and Design, Vol. 85, 2015, p. 752-761.
12. N. Lumley, I.J. Polmear, A.J. Morton. Temper Developments Using Secondary Ageing, Materials Forum, Vol. 28, 2004.
13. Chandan Mondal, K. Mukhopadhyay, On the nature of T(Al2Mg3Zn3) and S(Al2CuMg) phases present in as-cast and annealed 7055 aluminum alloy, Materials Science and Engineering A, Vol. 391, 2005, p. 367-376
14. Rui-ji SUN, Qing-qing SUN, Yue-huang XIE, Peng-xuan DONG, Qi-yuan CHEN, Kang-hua CHEN, Enhancing corrosion resistance of 7150 Al alloy using novel three-step aging process, Transactions of Nonferrous Metals Society of China, Vol. 26, 2016, p. 1201-1210.
15. Xigang Fan, Daming Jiang, Li Zhong, Tao Wang, Shiyu Ren, Influence of microstructure on the crack propa- gation and corrosion resistance of Al-Zn-Mg-Cu alloy, Materials Characterization, Vol. 58, 2007, p. 24-28.
16. Bore Jegdic, Ana Alil, Biljana Bobic, Miroslav Radosavljevic, Vesna Miskovic-Stankovic, Corrosion testing of an Al-Zn-Mg-Cu alloy after different heat treatment regimes by the application of electrochemical methods, Conference Proceedings of 5th international scientific conference on defensive technologies – OTEH, Belgrade- Serbia, 2012, p. 588-593.
17. J. Summerson, and D.O. Sprowls, Corrosion Behavior of Aluminum Alloys, Conference Proceedings – Aluminum Alloys-Physical and Mechanical Properties, Virginia, Vol 3, 1986, p. 1576-1662.
18. R. Davis, Corrosion of Aluminum and Aluminum Alloys, ASM International, Ohio, 1999.
19. K. Xu, N. Birbilis, D. Lashansky, P.A. Rometsch, B.C. Muddle, Effect of solution treatment on the corrosion behaviour of aluminium alloy AA7150: Optimisation for corrosion resistance, Corrosion Science, Vol. 53, 2011, p.217-225.