35

Giải mã sai hỏng để nâng cao chất lượng cho khuôn dập nguội làm bằng thép SKD11

Bài báo này đề cập đến việc khảo sát các nguyên nhân do vật liệu và nhiệt luyện không đúng dẫn đến tuổi thọ của khuôn thấp, các biện pháp khắc phục để nâng cao chất lượng của khuôn dập nguội bằng thép họ SKD11

Decode defects to improve the quality of cold working dies of SKD11 STEEL

Phùng Thị Tố Hằng, Nguyễn Anh Sơn
Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Tóm Tắt

    Tuổi thọ khuôn luôn là vấn đề được quan tâm ở không chỉ ở Việt nam mà cả các nước trên thế giới. Việc xác định các sai hỏng có nguyên nhân từ vật liệu hoặc xử lý nhiệt vật liệu làm khuôn mà chúng ảnh hưởng đến chất lượng của khuôn dập nguội bằng thép SKD11 là công việc có ý nghĩa rất quan trọng. Từ đó có thể khắc phục và điều chỉnh vật liệu, các biện pháp xử lý nhiệt vật liệu làm khuôn, nhằm nâng chất lượng và tuổi thọ khuôn. Bài báo này khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng khuôn dập nguội như các dạng sai hỏng, tổ chức tế vi của thép SKD11 ở trạng thái cung cấp, ảnh hưởng của nó đến tổ chức và cơ tính sau nhiệt luyện kết thúc, phân tích nhược điểm của một số qui trình nhiệt luyện đang sử dụng và đưa ra các kiến nghị về biện pháp xử lý.

Abstract

    The service life of dies is interesting not only in VietNam but also in many other countries. The identification of defects of the dies caused by materials or heat treatnment had very important signification because these defects affect the quality of cold working dies of SKD11 steel. Therefore we can enhance and control material or heat treatments to improve servise life and quality of dies. This report deals with investigating factors that affect the quality of cold working dies such as defects, primery microstructure of SKD11 affecting their microstructure and properties after quenching and tempering. This report also analyzes disadvantages of some heat treatment processes used in manufactures and makes recommendations to repairing

1. Mở Đầu

    Nâng cao tuổi thọ cho khuôn dập nguội đã và đang là vấn đề được quan tâm của công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập nhằm mục tiêu sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, có tính cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới. Việc phát triển công nghiệp sản xuất xe máy và ôtô ở Việt nam càng đặt ra đòi hỏi cấp thiết cho việc nghiên cứu các biện pháp nâng cao chất lượng và tuổi thọ cho khuôn dập nguội.

    Như chúng ta đã biết, các đặc tính quan trọng quyết định tính chất của khuôn bao gồm độ bền, độ cứng, độ dai, khả năng chống mài mòn. Các loại khuôn khác nhau đòi hỏi cơ tính khác nhau, khuông dập nguội cần có độ cứng cao để biến dạng nguội các vật liệu gia công, thường nằm trong khoảng từ 58-62HRC [1,2,3]. Khuôn đột dập làm việc trong điều kiện va đập, độ cứng không nên vượt quá 60 HRC do dễ bị sứt, vỡ. Khuôn dập vuốt và dập sâu, chủ yếu chịu ma sát và mài mòn, độ cứng có thể lấy theo giớ hạn trên.

    Hơn nữa, khi độ cứng của dụng cụ trên 60 HRC thì cứ tăng thêm 1 HRC thì tuổi thọ của khuôn tăng thêm 30%, đây cũng là điều đáng quan tâm để nâng cao tuổi thọ của khuôn. Nghiên cứu chất lượng khuôn cho thấy rằng, tuổi thọ của khuôn thấp có thể do các nguyên nhân:

    – Khả năng chống mài mòn kém có thể do độ cứng thấp (52-55 HRC)

    – Hiện tượng sứt và vỡ khuôn do nhiệt luyện không đúng (độ cứng không phù hợp với chức năng khuôn, chẳng hạn khuôn đột dập độ cứng nên thấp hơn khuôn dập vuốt).

    – Vật liệu làm khuôn không tương thích với vật liệu dập sản phẩm và số lượng chi tiết sản xuất trên một đầu khuôn.

    – Lắp đặt khuôn không đúng.

    – Chế độ bôi trơn khi dập không đảm bảo.

    Ngoài ra, còn có nhiều nguyên nhân khác, đặc biệt là về vật liệu và xử lý nhiệt vật liệu. Bài báo này đề cập đến việc khảo sát các nguyên nhân do vật liệu và nhiệt luyện không đúng dẫn đến tuổi thọ của khuôn thấp, các biện pháp khắc phục để nâng cao chất lượng của khuôn dập nguội bằng thép họ SKD11.

2. Phương pháp nghiên cứu

    Thép làm khuôn dập nguội thường sử dụng hiện nay là SKD11, đây là loại thép làm khuôn thích hợp với các vật liệu dập là thép tấm (SPCC), thép không gỉ và cho sản lượng lớn. Bảng 1 là thành phần của SKD11 theo tiêu chuẩn JIS ( Nhật bản) và một số mác cùng họ của các nước.

Bảng 1

Bảng 1. Thành phần của thép SKD11 và một số mác thép tương đương của một số nước

    Các nghiên cứu xuất phát từ việc khảo sát các khuôn dập nguội hỏng do một số công ty trên địa bàn Hà nội cung cấp, các khuôn này được phân tích thành phần hoá học (bằng phương pháp quang phổ phát xạ, đo độ cứng trên thiết bị HP250 (của Nga) và Mityo (của ý), chụp ảnh tổ chức tế vi của khuôn hỏng tại các vị trí khác nhau trên kính hiển vi Asiover 100A (của Đức). Nghiên cứu tổ chức ở trạng thái cung cấp của thép SKD11 của công ty, nghiên cứu qui trình nhiệt luyện hiện đang được nhiều công ty trên địa bàn Hà nội sử dụng.

3. Kết quả và bàn luận

3.1. Khảo sát các dạng sai hỏng của khuôn

Hình 1. Một số dạng sai hỏng khuôn dập nguội
a. Khuôn dập nứt ngay trong khi gia công
b. Mảnh vỡ chày dập thìa inoc
c. Mảnh vỡ cối dập thìa inoc
d. Chày khuôn dập chậu rửa kép inoc bị dính, xước sau một thời gian làm việc

    Hình 1 là ảnh các dạng khuôn sai hỏng sau một thời gian làm việc, nguyên nhân các sai hỏng của các khuôn dập có thể dự đoán như sau:

    – Nứt, vỡ: có thể do sự không tương thích giữa vật liệu làm khuôn với phôi dập hoặc chọn vật liệu làm khuôn không đúng. Chẳng hạn khuôn cắt hình và khuôn dập vuốt bằng thép SKD11, vật liệu dập là thép SPCC, theo qui trình xử lý nhiệt của công ty thông thường dập được 10.000 sản phẩm. Trong khi nếu nhiệt luyện đúng, khuôn có thể sản xuất 1 triệu sản phẩm [4]. Do thép SKD11 là thép họ lêdêburit, cacbit sau đúc có dạng xương cá thô. Nếu tổ chức ban đầu của vật liệu làm khuôn có cacbit thô, phân bố dạng thớ do rèn phôi sau đúc không kỹ, không được làm vỡ vụn và phân bố đều trước khi chế tạo khuôn, sẽ là nơi phát sinh vết nứt đầu tiên, dẫn đến nứt vỡ. Nứt vỡ còn có thể có nguyên nhân bởi ứng suất nhiệt ở các chi tiết không đồng đều về tiết diện, có phần dày, phần mỏng. Phần mỏng khi nung sẽ đạt nhiệt độ trước phần dày.

    Do đó, để tránh nứt hoặc cong vênh cần nung chậm hoặc nung phân cấp, tạo cân bằng nhiệt giữa phần dày và phần mỏng cũng như giữa bề mặt và lõi. Làm nguội nhanh cũng gây ra ứng suất nhiệt, SKD11 là thép hợp kim cao, có tốc độ nguôi tới hạn nhỏ, làm nguội chậm cũng nhận được máctenxit, nên không cần làm nguội với tốc độ lớn, thường sử dụng dầu nóng để hạn chế ứng suất. Khi nhiệt luyện còn có ứng suất tổ chức do quá trình chuyển biến austenit thành mactenxit với thể tích tăng lên. Sự tăng thể tích của các phần không đều nhau cũng là một trong những nguyên nhân gây ra nứt. Vì vậy, cần tận dụng tôi đẳng nhiệt với các loại thép hợp kim cao như SKD11[5].

    Nứt chân chim là một dạng khác, có nguyên nhân do sự thoát cácbon bề mặt khi nung trong lò không có khí bảo vệ. Trong môi trường nung thông thường có chứa các các khí có tác dụng ôxy hóa, dễ tác dụng với sắt và cacbon. Ôxy trong môi trường sẽ tác dụng với sắt, tạo ra ôxit sắt, lớp vảy này làm xấu bề mặt và giảm kích thước của chi tiết. Ôxy còn có thể tác dụng với cacbon của thép, dẫn đến hiện tượng mất cacbon ở bề mặt. Khi tôi, bề mặt sẽ chuyển biến thành mactenxit có hàm lượng cacbon thấp với thể tích riêng nhỏ hơn thể tích riêng của mactenxit của lớp liền kề có hàm lượng cacbon cao hơn do không bị thoát cacbon. Sự không đồng đều về tổ chức giữa bề mặt bị thoát cacbon và lớp liền kề bề mặt làm cho lớp bề mặt chịu ứng suất kéo. Khi gia công cơ tiếp theo ứng suất đó tăng lên, nếu lớn hơn giới hạn bền, sẽ dẫn đến nứt chân chim.

    – Tuổi thọ của khuôn thấp do độ cứng của khuôn không đạt yêu cầu. Độ cứng có thể thấp hơn yêu cầu. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến khuôn không đạt độ cứng sau nhiệt luyện. Nhiệt độ tôi thấp, thời gian giữ nhiệt không đủ để hòa tan các cacbit, mactenxit sau tôi có độ quá bão hòa cacbon không cao, độ cứng nhận được thấp. Độ cứng không đạt yêu cầu còn có thể do sử dụng thép SKD11 có chất lượng không cao, sai khác với tiêu chuẩn. Nhiệt độ tôi quá cao, thời gian giữ nhiệt quá dài, lượng cacbon và nguyên tố hợp kim trong austenit ở trạng thái austenit hóa cao, sau tôi lượng austenit dư nhiều, độ cứng sau tôi thấp. Lượng austenit dư này nếu không được chuyển biến đáng kể khi ram cũng là nguyên nhân làm cho độ cứng thấp.

    Do đó, cần điều chỉnh lượng austenit dư phù hợp với độ cứng yêu cầu bằng số lần ram. Trong quá trình nhiệt luyện, chi tiết nung không được bảo vệ cẩn thận thì thoát cacbon là nguyên nhân làm cho độ cứng bề mặt thấp và khuôn chóng mòn. Thời gian giữ nhiệt quá lâu có thể làm lớn hạt cũng dẫn đến độ cứng và độ bền thấp.

    Kết quả khảo sát độ cứng trên các khuôn nứt vỡ, tuổi thọ thấp được đưa ra trên bảng 2. Các kết quả cho thấy khuôn dập thìa có độ cứng thấp hơn yêu cầu (50-52 HRC). Trong khi đó các khuôn còn lại có độ cứng đáp ứng yêu cầu làm việc nhưng lại bị vỡ do giòn. Nguyên nhân sẽ được giải thích rõ hơn bởi qui trình nhiệt luyện thực hiện dẫn đến tổ chức tế vi không đáp ứng yêu cầu chịu va đập.

    – Mài mòn không đều: khi độ cứng trên bề mặt khuôn không đồng đều, sự phân bố không đồng đều austenit dư và cacbit sau tôi có thể gây ra điểm cứng và điểm mềm. Nguyên nhân là do thời gian giữ nhiệt để tôi quá ngắn làm cho tổ chức của chi tiết chưa đồng nhất hoặc do cacbit có thể tích tụ (trước khi tan) phân bố không đều trên nền.

3.2. Phân tích thành phần hoá học của các thép làm khuôn dập nguội i

    Bảng 2 cũng giới thiệu thành phần hoá học của các thép làm khuôn sai hỏng được phân tích trên máy quang phổ phát xạ. Ta nhận thấy trừ hai loại khuôn đầu thuộc nhóm thép 90CrSi, thành phần của các thép còn lại thuộc họ SKD11, song ít nhiều sai khác với mác thép tiêu chuẩn, chẳng hạn hàm lượng các bon thấp hơn khá nhiều (1,149; 0,932 so với 1,4-1,6), hàm lượng vanadi lại cao hơn nhiều so với thép chuẩn (2,03; 1,182 so với 0,2-0,5), ngoài ra còn có thêm wolfram, co ban. Sự có mặt của các nguyên tố tạo cácbit mạnh cùng với hàm lượng cácbon

Bảng 2

Bảng 2. Thành phần hoá học của các thép làm khuôn và độ cứng sau nhiệt luyện thấp làm cho thép rất nhiều cácbit, lượng cacbon hoá bền cho nền ít.

    Có thể nói rằng, nguồn thép vào Việt nam không ổn định và không tiêu chuẩn. Đây sẽ là khó khăn lớn cho người xử lý nhiệt vật liệu, thường xuyên phải điều chỉnh qui trình nhiệt luyện và khó đạt được cơ tính theo yêu cầu.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *